Lịch sử Viện_dân_biểu_Philippines

Phiên họp chung của Cơ quan lập pháp Philippines, Manila. Ngày 15 tháng 11 năm 1916Lập pháp Philippine trước 1924Đảng kiểm soát Hạ viện. Chú ý sự ưu thế một đảng đối với Đảng Nacionalistas từ năm 1907 đến năm 1941, hệ thống hai đảng với sự nổi lên của Đảng Tự do năm 1946, sự trở lại của ưu thế một đảng đối với KBL từ năm 1978 đến năm 1984 và hệ thống đa đảng từ năm 1987 cho đến hiện tại. (theo %)Đảng kiểm soát Hạ viện. Chú ý sự ưu thế một đảng đối với Đảng Nacionalistas từ năm 1907 đến năm 1941, hệ thống hai đảng với sự nổi lên của Đảng Tự do năm 1946, sự trở lại của ưu thế một đảng đối với KBL từ năm 1978 đến năm 1984 và hệ thống đa đảng từ năm 1987 cho đến hiện tại. (theo tổng số ghế)

Hội đồng Philippine

Bài chi tiết: Hội đồng Philippine

Vào đầu thời kỳ chế độ thuộc địa của Mỹ, từ ngày 16 tháng 3 năm 1900, cơ quan lập pháp duy nhất của quốc gia là Ủy ban Philippine với tất cả các thành viên do Tổng thống Hoa Kỳ chỉ định. Dưới sự lãnh đạo của Toàn quyền Philippines, cơ quan đã thi hành tất cả các thẩm quyền lập pháp do Tổng thống và Quốc hội Hoa Kỳ ban hành cho đến tháng 10 năm 1907 khi Hội đồng Philippine tham gia. William Howard Taft đã được chọn là Toàn quyền dân sự Hoa Kỳ đầu tiên và là người lãnh đạo đầu tiên của Ủy ban Philippine này, sau đó trở thành Ủy ban Taft.

Dưới sự lãnh đạo của Nghị trưởng Sergio Osmeña và lãnh đạo hội nghị Tướng Manuel L. Quezon, Điều luật của Quốc hội Hoa Kỳ thứ 59 được thông qua một cách cơ bản như là Điều luật của Cơ quan lập pháp Philipine. Osmeña và Quezon đã lãnh đạo Đảng Nacionalista, với nền tảng độc lập từ Hoa Kỳ, tới những chiến thắng liên tiếp trước Đảng Progresista và sau đó là Đảng Dân chủ, trước tiên ủng hộ cương vị một bang của Hoa Kỳ, sau là phản đối sự độc lập ngay lập tức.

Đạo luật Jones năm 1916

Năm 1916, Đạo luật Jones, chính thức là Đạo luật Tự trị Philippine, đã thay đổi hệ thống lập pháp. Ủy ban Philippine đã bị bãi bỏ và một Cơ quan lập pháp Philippine mới được bầu đầy đủ, Cơ quan lập pháp Philippine bao gồm một Viện dân biểu và một Thượng viện được thành lập. Các đảng viên Nacionalistas tiếp tục chiếm ưu thế bầu cử về điểm bầu cử vào thời điểm này, mặc dù họ đã được chia thành hai phe dẫn đầu bởi Osmeña và Quezon; hai người sau đó đã hòa giải vào năm 1924, và kiểm soát Quốc hội thông qua một hệ thống đảng ưu thế ảo.

Thịnh vượng chung và Đệ tam Cộng hòa

Bài chi tiết: Quốc hội Philippines

Hệ thống lập pháp đã được thay đổi lần nữa vào năm 1935. Hiến pháp 1935 thành lập một Quốc hội đơn viện. Nhưng vào năm 1940, thông qua sửa đổi Hiến pháp 1935, một Quốc hội lưỡng viện của Philippines gồm Viện dân biểu và Thượng viện đã được thông qua.

Cùng với sự hình thành của Cộng hoà Philippines năm 1946, Đạo luật Cộng hòa số 6 đã được ban hành với điều kiện vào ngày công bố nước Cộng hòa Philippines, Quốc hội hiện tại sẽ được gọi là Quốc hộ thứ nhất của Cộng hoà. "Khối tự do" của Nacionalistas vĩnh viễn tách ra khỏi hàng ngũ của họ, tạo ra Đảng Tự do. Hai tổ chức này sẽ tranh cử tất cả các cuộc bầu cử trong hệ thống hai đảng. Đảng của Tổng thống cầm quyền thắng cử trong Viện dân biểu; trong trường hợp đảng của Tổng thống và đa số thành viên của Viện dân biểu khác nhau, một số lượng đủ sẽ tách ra và tham gia đảng của Tổng thống, do đó đảm bảo rằng Tổng thống sẽ có quyền kiểm soát của Viện dân biểu.

Thiết quân luật

Việc thiết lập này được tiếp tục cho đến khi Tổng thống Ferdinand Marcos tuyên bố thiết quân luật và bãi bỏ Quốc hội. Ông sẽ cai trị bằng nghị định ngay cả sau khi Hiến pháp 1973 bãi bỏ Quốc hội lưỡng viện và thành lập một hệ thống nghị viện chính phủ Batasang Pambansa (Lập pháp Quốc gia) đơn viện, vì cuộc bầu cử nghị viện sẽ không xảy ra vào năm 1978. Đảng Kilusang Bagong Lipunan (KBL; Phong trào Xã hội Mới) của Marcos giành được tất cả các ghế ngoại trừ những người từ Trung Visayas mở ra thời kỳ thống trị của KBL, sẽ tiếp tục cho đến khi cuộc Cách mạng Quyền lực Nhân dân đã lật đổ Marcos vào năm 1986.

Hiến pháp 1987

Hiến pháp năm 1987 đã khôi phục lại hệ thống tổng thống chế của chính phủ cùng với một Quốc hội lưỡng viện của Philippines. Một khác biệt so với thiết lập trước đó là việc đưa ra cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ; tuy nhiên, động lực của Viện dân biểu đã trở lại trạng thái trước năm 1972 với đảng của Tổng thống kiểm soát Viện, mặc dù chủ nghĩa đa nguyên chính trị đã cản trở việc khôi phục lại hệ thống hai đảng Nacionalista - Tự do cũ. Thay vào đó, một hệ thống đa đảng đã phát triển.

Corazon Aquino người trên danh nghĩa không đảng phái, đã hỗ trợ Đảng Laban ng Demokratikong Pilipino (LDP, Đảng Đấu tranh Dân chủ Philippines). Với chiến thắng của Fidel V. Ramos trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1992, nhiều đại diện đã từ bỏ đảng Lakas-NUCD của ông ấy; chuyện tương tự cũng xảy ra với chiến thắng của Joseph Estrada năm 1998, nhưng ông đã mất sự ủng hộ khi ông bị lật đổ sau cuộc Cách mạng EDSA năm 2001, đưa Phó Tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo lên nắm quyền. Điều này cũng có nghĩa là đảng Lakas-NUCD được khôi phục trở lại thành đảng cầm quyền trong Viện. Chuyện tương tự lại tiếp tục xảy ra khi Benigno Aquino thắng trong năm 2010, đưa Đảng Tự do trở lại nắm quyền.

Viên chức nắm quyền tối cao là Nghị trưởng. Không giống như Chủ tịch Thượng viện, Nghị trưởng thường phục vụ toàn bộ nhiệm kỳ của Quốc hội, mặc dù đã có những trường hợp Nghị trưởng rời nhiệm sở vì mâu thuẫn với Tổng thống: ví dụ như ông Jose de Venecia từ chức năm 2008 khi con trai ông phơi bày những hành vi tham nhũng của Đệ nhất Phu quân Mike Arroyo, và cuộc đàn áp của Manny Villar xảy ra sau khi ông ta cho phép buộc tội Tổng thống Estrada vào năm 2000.